Tài chính tiền tệ - Thu và chi ngân sách nhà nước

__________________________________________________________________
1. Thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực có được của mình để huy động một bộ phận của cải xã hội dưới dạng tiền tệ để hình thành nên quỹ tiền tệ của ngân sách nhà nước. Kết quả thu ngân sách nhà nước được biểu hiện bằng tỷ lệ thu ngân sách nhà nước trên tổng sản phẩm quốc nội (tính theo phần trăm).
Các khoản thu ngân sách nhà nước gồm:

1.1. Thuế
Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức cho nhà nước nhằm đảo bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước.

Thuế có những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, nguồn gốc của thuế là một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp trong xã hội. Các cá nhân, doanh nghiệp là người hưởng lợi ích từ chi tiêu ngân sách nhà nước và họ có thu nhập nên phải có nghĩa vụ trích một phần thu nhập nộp vào ngân sách nhà nước, bằng hình thức trực tiếp (thuế thu nhập) hoặc gián tiếp (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…)
- Thứ hai, thuế là một hình thức phân phối lại một bộ phận nguồn tài chính của xã hội. Sự phân phối này không mang tính hoàn trả trực tiếp, mà hoàn trả gián tiếp cho người nộp và không tương đương về hình thức và số lượng đối với khoản đóng góp. Người chịu thuế được hưởng các hàng hoá và dịch vụ nhà nước cung cấp không mất tiền hoặc với giá thấp và không phân biệt giữa người nộp thuế nhiều và người nộp ít.
- Thứ ba, thuế mang tính chất cưỡng chế, được thiết lập theo luật định. Thuế mang tính cưỡng chế vì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước, nhưng do tính chất không hoàn trả trực tiếp và tương đương nên người chịu thuế không tự giác nộp. Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Những loại thuế đầu tiên trong lịch sử loài người xuất hiện cùng với nhà nước chiếm hữu nô lệ. Ban đầu, thuế được thu bằng hiện vật, sau đó, khi nền kinh tế hàng hóa tiền tệ phát triển hơn, thuế được thu dưới hình thức giá trị. Nhà nước sử dụng thuế thông qua một hệ thống thuế, một mặt để huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác, coi thuế là công cụ phân phối quan trọng, tác động vào quá trình quản lý và điều tiết các hoạt động của nền kinh tế quốc dân.

1.2. Phí, lệ phí
Phí là khoản thu do nhà nước quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của ngân sách nhà nước mà nhà nước đã đầu tư cho việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu công cộng của các cá nhân, tổ chức như phí đào tạo, phí giường bệnh, phí bảo vệ môi trường, phí qua cầu phà, phí tham quan danh lam thắng cảnh…

Lệ phí là khoản thu do nhà nước quy định cho các cơ quan, đơn vị được thu khi trực tiếp thực hiện việc quản lý hành chính hoặc tư pháp nhà nước theo yêu cầu của các tổ chức và cá nhân, như lệ phí trước bạ, lệ phí công chứng, lệ phí cấp giấy phép hành nghề đăng ký kinh doanh, lệ phí thi và tuyển sinh, lệ phí tòa án…

Nếu nhà nước quy định số tiền nộp lệ phí nào đó lớn nhằm tăng thu ngân sách nhà nước thì không gọi là lệ phí mà gọi là thuế, hay thuế mang tính chất lệ phí như thuế môn bài. Phí và lệ phí vừa mang tính chất phục vụ người nộp lệ phí (hoàn trả trực tiếp), vừa mang tính chất động viên đóng góp cho ngân sách nhà nước.

Do đặc điểm của thuế, phí và lệ phí khác nhau, dẫn tới hình thức văn bản pháp luật điều chỉnh và cơ quan ban hành chúng cũng khác nhau. Thuế cần được Quốc hội quyết định và ban hành dưới dạng luật, riêng thuế mang tính chất lệ phí thì chỉ cần Chủ tịch nước quyết định. Do Việt Nam mới tiếp cận kinh tế thị trường nên một số thuế tạm thời do Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành dưới dạng pháp lệnh để thuận tiện cho quá trình hoàn thiện. Phí và lệ phí do Chính phủ, Bộ tài chính và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trung ương ban hành dưới dạng nghị định, quyết định.

1.3. Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước
Nhà nước tham gia hoạt động kinh tế và thu được lợi nhuận trên phần vốn đầu tư của mình. Các khoản thu này tồn tại dưới nhiều hình thức, biểu hiện hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước, bao gồm:
- Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của nhà nước vào các cơ sở kinh tế,
- Thu tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp nhà nước. Khoản thu này trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp theo tỷ lệ từ 0,2% tới 0,5% vốn ngân sách nhà nước cấp trên tháng. Vốn ngân sách nhà nước cấp gồm có vốn do ngân sách nhà nước cấp và vốn có nguồn gốc từ ngân sách (như viện trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, các khoản lợi nhuận phải nộp ngân sách được phép giữ lại bổ sung vốn),
- Tiền thu hồi vốn của nhà nước tại các cơ sở kinh tế, ví dụ tiền thu từ việc bán cổ phần tại các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, bán doanh nghiệp nhà nước làm ăn yếu kém mà không cần thiết giữ lại,
- Tiền thu hồi từ cho vay của nhà nước (cả gốc và lãi) từ các tổ chức, cá nhân trong nước, vay qua hệ thống ngân hàng, từ chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế,

1.4. Các khoản vay trong nước và nước ngoài
Các khoản vay nợ của Chính phủ phản ánh việc vận dụng tín dụng nhà nước, trong đó nhà nước là người vay vốn để đảm bảo chi tiêu của ngân sách. Chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng nhà nước bao gồm: chính quyền nhà nước trung ương, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội, dân cư và các chủ thể nước ngoài.

Huy động vốn bằng vay nợ của chính phủ có hai loại:
- Vay ngắn hạn (dưới 1 năm), thường để bù đắp các khoản bội chi tạm thời của ngân sách nhà nước.
- Vay trung và dài hạn (thời hạn hơn 1 năm), nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển, đầu tư cơ sở hạ tầng mà hiệu quả mang lại sau một thời gian khá dài.

Vay nợ trong nước được tiến hành dưới hình thức phát hành trái phiếu nhà nước, gồm:
+ Trái phiếu chính phủ, có 3 loại gồm, tín phiếu kho bạc (có thời hạn dưới 1 năm), trái phiếu kho bạc (có thời hạn từ 1 năm trở lên) và trái phiếu công trình (còn gọi là trái phiếu đầu tư). Vay trái phiếu công trình do cơ quan chính phủ quản lý và sử dụng cho đầu tư một công trình nhất định. Trái phiếu, tín phiếu có thể phát hành qua hệ thống ngân hàng nhà nước hoặc qua kho bạc nhà nước).
+ Trái phiếu chính quyền địa phương: dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc phần trách nhiệm của địa phương. Nước nào có mức độ phân cấp quản lý ngân sách cao thì trái phiếu địa phương phát triển hơn.
+ Công trái: nhà nước phát hành khi đất nước gặp khó khăn do chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, cần sự ủng hộ của người dân để vượt qua. Công trái có lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường và thời hạn vay thường dài.

Vay nước ngoài thực hiện dưới các hình thức sau:
+ Vay vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ nước ngoài (- vay song phương) hoặc của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (- vay đa phương). Vốn ODA thường gồm một phần không hoàn lại, phần còn lại là vay ưu đãi. Phần vay ưu đãi được
tính vào khoản vay nước ngoài để theo dõi và có kế hoạch trả nợ. Lưu ý, các khoản vay ưu đãi thường có những ràng buộc về chính trị, về các điều khoản hợp tác thương mại quốc tế, công nghệ kỹ thuật, về mục đích sử dụng vốn thông qua các chương trình, các dự án đầu tư phát triển.
+ Vay mượn theo các hiệp định vay mượn giữa chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới; vay của các thương nhân, tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài.
+ Phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế tại các thị trường vốn quốc tế.
Hai khoản vay sau từ nước ngoài theo lãi suất thị trường và điều kiện vay khó hơn nên Việt Nam rất ít sử dụng.

Ngoài ra thu vào ngân sách nhà nước còn có các khoản khác như các khoản viện trợ không hoàn lại của chính phủ của các nước, của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho chính phủ hoặc trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước; tiền sử dụng đất khi giao quyền sử dụng đất; tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước; thu tiền bán hàng hóa, vật tư từ quỹ dự trữ; thu các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước như đóng góp cho quỹ an ninh, quỹ phòng chống thiên tai, ủng hộ đồng bào bão lụt…

2. Chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện nhiệm vụ của nhà nước..
Các khoản chi và phân loại các khoản chi ngân sách nhà nước
2.1. Căn cứ vào chức năng của NN và phương thức quản lý ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước được chia thành 3 nhóm:
- Chi đầu tư phát triển
- Chi thường xuyên
- Chi trả nợ.
Cách phân loại này được áp dụng phổ biến trên thế giới, cho phép xem xét đánh giá được mối quan hệ chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng kinh tế và duy trì hoạt động thường xuyên của nhà nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Sau đây, ta sẽ đi sâu phân tích nội dung chi ngân sách nhà nước theo cách phân loại này.
* Nhóm chi đầu tư phát triển:
Là những khoản chi ngân sách nhà nước nhằm tạo dựng cơ sở vật chất cho các lĩnh vực, nhất là các cơ sở kinh tế của nhà nước và thực hiện các mục tiêu để phát triển đất nước.
Nội dung chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước bao gồm:
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản,
+ Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước,
+ Góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước,
+ Chi cho quỹ hỗ trợ phát triển, và quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình mục tiêu quốc gia (chương trình mục tiêu giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi trọc ...)
+ Chi dự trữ nhà nước để hình thành các quỹ dự trữ quốc gia,
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác.

* Nhóm chi thường xuyên:
Gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của nhà nước, gắn liền với chức năng quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước.
Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước về cơ bản mang tính chất chi tiêu dùng. Chi thường xuyên được chia thành hai bộ phận cơ bản. Một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước và một bộ phận chi để đáp ứng các nhu cầu của dân cư trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội, có mối quan hệ trực tiếp với thu nhập của dân cư và nâng cao mức sống dân cư.
Trong quản lý ngân sách nhà nước, yêu cầu chi thường xuyên không được lớn hơn số thu từ thuế và phí của ngân sách nhà nước, hàng năm phải dành ra một phần thu từ thuế, phí cho đầu tư phát triển. Hiện nay, chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước Việt Nam chiếm khoảng trên 65% tổng số chi của ngân sách nhà nước, tương đương khoảng 17% GDP tạo ra hàng năm, và có xu hướng giảm (về tỷ trọng).
Nội dung chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gồm có:
+ Chi quản lý nhà nước: là các khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. Các khoản chi về quản lý nhà nước được cấp phát từ ngân sách nhà nước bao gồm:
+ Chi hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,
+ Chi về hoạt động của hệ thống các cơ quan pháp luật như ngành tư pháp, hệ thống tòa án nhân dân và viện kiểm soát nhân dân,
+ Chi về hoạt động quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội cho các cơ quan quản lý xã hội như Chính phủ, các bộ ngành thuộc Chính phủ và chính quyền các cấp,
+ Chi hoạt động của các cơ quan thuộc Đảng ở các cấp.
+ Chi sự nghiệp: là những khoản chi cho các dịch vụ và hoạt động xã hội phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí của dân cư. Đây thực chất là khoản chi đảm bảo các hoạt động sự nghiệp và chi mang tính trợ cấp cho các đối tượng xã hội nhất định.Theo tính chất hoạt động của các ngành, chi sự nghiệp bao gồm:
            - Chi sự nghiệp kinh tế (điều tra cơ bản, đo vẽ bản đồ, định canh định cư, giao thông, nông nghiệp thuỷ lợi, …),
            - Chi sự nghiệp văn hóa xã hội gồm sự nghiệp giáo dục đào tạo, sự nghiệp nghiên cứu khoa học, sự nghiệp y tế, sự nghiệp văn hóa thể thao, sự nghiệp xã hội...
            - Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, gồm hai bộ phận:
            - Chi cho quốc phòng để bảo vệ nhà nước,
            - Chi bảo vệ và giữ gìn chế độ xã hội, an ninh của dân cư trong nước.
            - Chi thường xuyên khác.
            - Chi trả nợ:
Nhóm chi trả nợ được tách riêng ra nhằm mục đích quản lý được chúng được tốt hơn. Chi trả nợ nhà nước bao gồm:
+Chi trả nợ trong nước: đây là khoản nợ mà nhà nước vay của các tầng lớp dân cư, các tổ chức bằng phát hành các loại trái phiếu, tín phiếu kho bạc.
+ Chi trả nợ nước ngoài: các khoản nợ nước ngoài mà nhà nước vay của chính phủ các nước, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ quốc tế.

2.2. Căn cứ vào mục đích chi tiêu, nội dung chi ngân sách nhà nước
Chia thành 2 nhóm: chi tích luỹ và chi tiêu dùng
* Chi tích luỹ của ngân sách nhà nước
 Là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng nền kinh tế. Các khoản chi tích luỹ của ngân sách nhà nước gồm có:  Chi dự đầu tư xây dựng cơ bản, chi cấp vốn lưu động, chi dự trữ vật tư của nhà nước và các khoản chi tích luỹ khác.
* Chi tiêu dùng của ngân sách nhà nước
Là những khoản chi còn lại của ngân sách nhà nước. Nội dung chi tiêu dùng của ngân sách nhà nước gồm có: chi sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp văn hóa - xã hội, quản lý hành chính nhà nước, chi quốc phòng, an ninh và chi tiêu dùng khác. Phân loại chi tích luỹ và tiêu dùng có ưu điểm là tạo điều kiện cho việc phân tích, đánh giá kết quả chi ngân sách nhà nước với quá trình phân phối GDP, giải quyết mối quan hệ cân đối giữa tích luỹ để phát triển kinh tế với tiêu dùng cho đời sống trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

2.3.  Căn cứ vào lĩnh vực chi tiêu
Chi ngân sách nhà nước ra làm các loại chi:
- Chi cho phát triển kinh tế.
- Chi cho y tế
- Chi cho giáo dục - đào tạo, khoa học.
- Chi cho văn hóa, thể dục thể thao.
- Chi về xã hội.
- Chi cho quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể.
- Cho cho quốc phòng, an ninh.
- Chi trả nợ.
- Chi khác...
Ưu điểm cách phân loại này có tác dụng phân tích, đánh giá các mặt hoạt động của nhà nước, thông qua đó xem xét tỷ trọng của các loại chi ngân sách nhà nước và sự biến đổi của nó qua các thời kỳ để đánh giá tính đúng đắn của việc phân phối sử dụng nguồn tài chính của nhà nước.

2.4. Nguyên tắc chi ngân sách nhà nước
Việc chi ngân sách nhà nước phải thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc chi trên cơ sở thu
- Nguyên tắc chi có hiệu quả
- Nguyên tắc chi có trọng tâm trọng điểm

3. Cân đối ngân sách nhà nước
3.1. Phương pháp cân đối ngân sách nhà nước.
* Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước:
- Nguyên tắc thứ nhất:
Thu ngân sách nhà nước (không bao gồm vay nợ) - Chi ngân sách thường xuyên > 0. Với nguyên tắc này thu ngân sách nhà nước trước hết phải đảm bảo cho nhu cầu chi thường xuyên và còn để chi đầu tư phát triển và trả nợ.
- Nguyên tắc thứ hai:
Thu ngân sách nhà nước - chi thường xuyên = chi đầu tư + chi trả nợ.

* Cách cân đối thu chi ngân sách nhà nước:
Là việc so sánh giữa tổng thu ngân sách nhà nước và tổng chi chi ngân sách nhà nước trong một thời gian nhất định, thông thường là một năm, xảy ra ba trường hợp:
- Nếu tổng thu ngân sách > tổng chi ngân sách thì ngân sách nhà nước bội thu.
- Nếu tổng thu ngân sách = tổng chi ngân sách thì ngân sách cân bằng, tức là thu đủ chi.
- Nếu tổng thu ngân sách < tổng chi ngân sách, là bội chi ngân sách.

3.2. Bội chi và xử lý bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách là chênh lệch dương giữa tổng số chi ngân sách nhà nước thực tế và tổng số thu ngân sách nhà nước thực tế. Bội chi ngân sách nhà nước trong thực tế người ta còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà nước.
 Có hai nhóm nguyên nhân chính:
- Nhóm nguyên nhân mang tính khách quan do diễn biến của chu kỳ kinh doanh, do tác động của điều kiện tự nhiên, của các yếu tố bất khả kháng,
- Nhóm nguyên nhân mang tính chủ quan thuộc về quá trình quản lý và điều hành của nhà nước. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, song phần lớn những phân tích của các nhà kinh tế đều cho rằng tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và triền miên làm tăng lãi suất thị trường, thúc đẩy nhập siêu, gây ra những khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và đời sống của người lao động.
Có ba biện pháp chủ yếu để khống chế bội chi ngân sách gồm
(1) Tăng thu, giảm chi,
(2) Vay trong và ngoài nước để bù đắp bội chi.
(3) Phát hành tiền giấy để bù đắp bội chi.
Xem xét ba biện pháp này thấy rằng, trước hết, nếu chính phủ phát hành tiền giấy để chi tiêu cho ngân sách nhà nước vượt quá yêu cầu của lưu thông tiền giấy sẽ làm giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao, lạm phát xảy ra.
Thứ hai, vay nợ trong nước và nước ngoài là một giải pháp. Nhưng nếu đầu tư không tốt có thể dẫn tới tình trạng không trả được nợ. Khi ấy phải tăng thuế hoặc vay nợ mới để trả nợ cũ. Vấn đề này tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng tài chính và suy giảm uy tín của quốc gia. Trong trường hợp đó, tăng thu, giảm chi là giải pháp tốt nhất để tìm cách cân đối ngân sách nhằm ổn định tình hình tài chính vĩ mô. Tuy vậy việc tăng thu và giảm chi đều có giới hạn.
Về giảm chi:
Xét cơ cấu chi ngân sách nhà nước gồm 3 phần chủ yếu: chi tích lũy cho đầu tư phát triển, chi cho tiêu dùng kinh tế - văn hóa - xã hội và chi trả nợ trong và ngoài nước. Vấn đề cắt giảm chi trả nợ trong nước là điều không thể thực hiện được. Các khoản nợ nước ngoài đến hạn thì nhà nước phải trả, kể cả các khoản vốn của các tổ chức tài chính, tiền tệ thế giới cho quốc gia vay với lãi suất thấp, ưu đãi để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Cắt giảm chi tiêu dùng cho kinh tế - văn hóa - xã hội cũng có giới hạn. Đành rằng nhà nước đã sử dụng chính sách tiết kiệm trong chi dùng ngân sách nhà nước, thực hiện chống tham nhũng, chống lãng phí trong việc sử dụng công quĩ nhà nước. Nhưng biện pháp đó không đồng nghĩa với cắt giảm chi dùng ngân sách nhà nước mà thực chất có thể hiểu là biện pháp để sử dụng vốn ngân sách nhà nước có hiệu quả cao hơn. Những khoản tiết kiệm được của mục đích này sẽ được sử dụng cho mục đích khác cấp bách hơn. Nhà nước chỉ cắt giảm được các khoản như chi phí quản lý, mua sắm trang bị. Còn tiết kiệm chi cho nhu cầu thường xuyên (chủ yếu chi cho con người) về hoạt động bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương là không đáng kể. Hơn nữa, nếu xử lý lạm dụng biện pháp này để giảm thâm hụt ngân sách nhà nước, xét về lâu dài sẽ dẫn đến hậu quả xấu khôn lường cho tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội. Điều đó lại làm cho ngân sách nhà nước càng thâm hụt hơn. Cắt giảm chi tích lũy cho đầu tư phát triển là điều dễ cảm nhận mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng kinh tế - xã hội. Vậy thì, ta chỉ cắt giảm được các nhu cầu đầu tư chưa thực sự cần thiết, các dự án chưa có điều kiện khả thi. Không nên đầu tư vốn một cách dàn trải, mà cần đầu tư những dự án, những công trình trọng điểm và then chốt. Vốn đầu tư của ngân sách nhà nước trong một số năm trước mắt nên ưu tiên bố trí cho các giao thông, cho các chương trình kinh tế lớn. Tóm lại, dùng giải pháp cắt giảm chi để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng chỉ là biện pháp tình thế, và lâu dài thì tiêu cực nhiều hơn tích cực.
 Về thu:
Từ phân tích trên có thể thấy điều mà mỗi quốc gia quan tâm hàng đầu để xử lý thiếu hụt ngân sách nhà nước là tăng thu ngân sách nhà nước. Tăng thu ngân sách nhà nước bằng biện pháp tích cực khai thác mọi nguồn thu, thay đổi và áp dụng các sắc thuế mới, nâng cao hiệu quả thu. Tuy nhiên, cần lưu ý khi tăng thu vẫn phải chú ý khuyến khích các ngành, vùng trọng điểm để tạo lực đẩy cho nền kinh tế và phải xác định cái gốc cơ bản là phải tăng thu ngân sách nhà nước bằng chính sự tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, giải pháp để có nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước hợp lý là kết hợp tăng thu, giảm chi và các nguồn vay nợ trong và ngoài nước. Về lâu dài muốn cải thiện tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước thì phải đảm bảo tính hiệu quả hợp lý của các khoản thu để nuôi dưỡng nguồn thu bằng phát triển kinh tế quốc gia.

Download toàn bộ bài viết tại đây