Showing posts with label mau thuan. Show all posts
Showing posts with label mau thuan. Show all posts

Hành vi tổ chức - Xung đột- mâu thuẫn

___________________________________________________________________

1. Khái niệm
Xung đột có tồn tại hay không là một vấn đề nhận thức. Nếu không ai nhận thấy xung đột, thì nhìn chung mọi người đồng ý rằng không có xung đột nào xuất hiện.  
Trên thực tế có một số xung đột không đáng có đã xảy ra và cũng tồn tại những trường hợp rất gay cấn nhưng xung đột đã không xảy ra bởi vì các thành viên trong nhóm không nhận thức đó là xung đột. Những điểm chung khác ở hầu hết các định nghĩa là sự thừa nhận tồn tại ít nhất hai phía có các lợi ích và mục tiêu đối lập nhau. Các nguồn lợi - ví dụ như tiền bạc, nghề nghiệp, uy tín, quyền lực – không phải là vô tận và sự khan hiếm của chúng khuyến khích hành vi kiềm chế lẫn nhau. Các phía vì thế rơi vào tình trạng đối lập Khi một bên cản trở việc thực hiện mục dịch của bên kia, tình trạng xung đột xuất hiện.

2. Các quan điểm về xung dột
a. Quan điểm truyền thống
Những người theo quan điểm truyền thống cho rằng xung đột thể hiện sự bế tắc trong nhóm và có hại. Xung đột được đánh giá theo khía cạnh tiêu cực và đồng nghĩa với các khái niệm như bạo lực, phá hoại bất hợp lý. Vì vậy cần phải tránh xung đột.
Quan điểm cho rằng mọi xung đột đều tiêu cực cho chúng ta một phương pháp lý giải đơn giản về hành vi của người gây ra xung đột. Để tránh mọi xung đột, chúng ta chỉ cần quan tâm tới nguyên nhân của xung đột và khắc phục chúng nhằm cải thiện hoạt động của nhóm và tổ chức.
b. Quan điểm các mối quan hệ giữa con người
Trường phái các mối quan hệ con người" cho rằng xung đột là kết quả tự nhiên và không thế tránh khỏi trong bật cứ một nhóm nào. Nó không có hại mà động hơn là còn có thể trở thành một động lực tích cực trong việc quyết đinh hoạt động của nhóm. Vì không thể tránh xung đột nên chúng ta cần chấp nhận nó. Xung đột không thể bị loại trừ và thậm chí có những xung đột lại nâng cao hiệu quả hoạt động của nhóm. Quan điểm "các quan hệ giữa con người" phát triển mạnh từ cuối thập kỷ 40 đến giữa thập kỷ 70.
c Quan điểm 'quan hệ tương tác"
Trường phái tư tưởng thứ ba, mới nhất và toàn diện nhất, cho rằng xung đột có thể là động lực tích cực của nhóm và một sốxung đột là hết sức cần thiết giúp nhóm hoạt động có hiệu quả. Trường phái này được gọi là "quan điểm tương tác vì họ coi xung đột là một khía cạnh của quan hệ tương tác Trong khi trường phái "các mối quan hệ của con người chấp nhận xung đột thì trường phái quan điểm tương tác" lại khuyến khích xung đột trong những nhóm mà sự hòa hợp, bình đẳng và hợp tác có thể làm cho nhóm trở nên thụ động, đình trệ trước các nhu cầu đổi mới. Vì vậy đóng góp quan trọng nhất của quan điểm này là nó khuyến khích người lãnh đạo các tổ chức duy trì xung đột ở mức tối thiểu, đủ đế giữ cho tổ chức hoạt động, tự phê bình và sáng tạo.
Với quan điểm quan hệ tương tác có thể khẳng định rằng quan niệm xung đột hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu là không đúng. Một xung đột tốt hay xấu phụ thuộc vào dạng của xung đột đó. Đặc biệt, cần phải phân biệt xung đột chức năng và xung đột phi chức năng.

3. Xung đột chức năng và phi chức năng
Những xung đột giúp nhóm đạt được mục tiêu và cải thiện hoạt động là xung đột chức năng và tích cực. Những xung đột cản trở hoạt động của nhóm là xung đột phi chức năng và tiêu cực.
Trên thực tế không có ranh giới rõ ràng giữa xung đột chức năng và phi chức năng. Một xung đột có tác động lành mạnh và tích cực tới các mục tiêu của nhóm này hoàn toàn có thể mang tính phi chức năng trong một nhóm khác hoặc trong chính nhóm đó vào một thời điểm khác.
Tiêu chí quan trọng đê đánh giá xem xung đột mang tính chúc năng hoặc phi chức năng chính là hoạt động của nhóm. Các nhóm tồn tại nhằm thực hiện một hoặc một số mục tiêu nào đó nên đặc điểm của xung đột được đánh giá trên cơ sở tác động của xung đột đối với nhóm chứ không phải đối với bất cứ một cá nhân nào. Khi đánh giá các xung đột mang tính chức năng hay phi chức năng, hay nói một cách khác, là đánh giá xem xung đột đó là tốt hay xấu, người ta không cần thiết phải xem xét các thành viên của nhóm nhận thức xung đột đó như thế nào. Một thành viên của nhóm có thể đánh giá một hành động là phi chức năng vì kết qủa của nó không thỏa mãn bản thân cá nhân đó. Tuy nhiên, theo phân tích của tập thể, hành động đó có tính chức năng vì nó thúc đẩy các mục tiêu của nhóm.

4. Quá trình xung dột
Quá trình xung đột diễn ra qua 4 giai đoạn: Xuất hiện các nguyên nhân có thể gây xung đột, nhận thức và cá nhân hóa, hành vi và các kết quả. Quá trình này được thể hiện dưới dạng sơ đồ trong hình 9.1.
Giai đoạn I. Xuất hiện các nguyên nhân có thể gây xung đột
Bước đầu tiên trong quá trình xung đột là sự xuất hiện các điều kiện tạo cơ hội cho xung đột xuất hiện. Các điều kiện này có thể không trực tiếp dẫn tới xung đột nhưng xung đột chỉ xuất hiện khi có một trong những điều kiện đó. Người ta gọi những điều kiện này là các nguyên nhân gây xung đột và chúng là hậu quả của việc truyền tải thông tin, đặc điểm của nhóm và sự khác biệt cá nhân.
Truyền tải thông tin: Khi thông điệp chuyển đi bị hiểu sai và "nhiễu' thì có khả năng xung đột sẽ xuất hiện. Mặc dù truyền tải thông tin yếu kém không phải là nguồn gốc của mọi xung đột nhưng thực tế đã chứng minh rằng những vấn đề xuất hiện trong quá trình truyền thông tin cản trở việc cộng tác và làm tăng sự hiểu lầm.
Đặc điểm của nhóm: Mỗi nhóm có những đặc trưng riêng về quy mô. thói quen, mức độ rõ ràng hoặc tiêu chuẩn hóa trong các nhiệm vụ được giao chơ các thành viên của nhóm; tính không đồng nhất trong nhóm; các phương pháp quản lý; các hệ thống khen thưởng và mức độ phụ thuộc. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng quy mô tổ chức và chuyên môn hóa là những yếu tố thúc đẩy xung đột. Nhóm càng lớn và các hoạt động được chuyên môn hóa càng cao thì khả năng xuất hiện xung đột càng nhiều. Việc nắm giữ chức vụ và xung đột quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Mầm mống xung đột có khuynh hướng xuất hiện nhiều nhất ở những nơi mà các thành viên của nhóm còn trẻ và việc thay thế nhân viên thường xuyên xảy ra.
Sự khác biệt cá nhân: Khác biệt cá nhân quan trọng nhất là quan điểm về hệ thống giá trị, phong cách và các đặc điểm riêng khác. Người ta đã chứng minh rằng một số tính cách nhất định - ví dụ như chuyên quyền độc đoán, và ích kỷ thường có khả năng gây ra xung đột. Hệ thống giá trị cũng là một nguyên nhân gây xung đột mà người ta thường dễ dàng bỏ qua. Hệ thống giá trị là quan điểm cá nhân về tầm quan trọng của những yếu tố như tự do, sự thỏa mãn, lao động, tự trọng, lương thiện, công bằng... Quan điểm khác nhau về giá trị là sự lý giải chuẩn xác nhất những vấn đề như định kiến, bất đồng, về đóng góp của một cá nhân cho nhóm và những lợi ích mà các nhân đó xứng đáng được hướng.
Giai đoạn II. Nhận thức và cá nhân hóa
Nhận thức là yếu tố khẳng định xung đột có xảy ra hay không. Vì vậy một hoặc hơn một bên phải ý thức được sự tồn tại của các điều kiện tiên đề. Tuy nhiên, một xung đột được xác định không có nghĩa là nó đã được cá nhân hóa. Một cá nhân có thể nhận thấy bản thân mình và người cộng sự đang bất đồng nhưng sự bất đồng đó có thể không làm anh ta lo lắng, căng thẳng và có thể không ảnh hưởng tới tình cảm của anh ta đối với người cộng sự. Xung đột chỉ được cảm nhận thây khi sự lo lắng, căng thẳng và đối kháng ở các bên trở nên bị kích động.
Giai đoạn III. Hành vi
Giai đoạn III cũng là giai đoạn xuất hiện các hành vi giải quyết xung đột. Một khi xung đột được bộc lộ, các bên sẽ áp dụng biện pháp giải quyết xung đột đó. Năm phương pháp giải quyết xung đột điển hình được sử dụng là: Cạnh tranh, hợp tác, tránh né, dung nạp và thỏa hiệp.
Cạnh tranh: Khi một người theo đuổi các mục tiêu nhất định hoặc các lợi ích cá nhân người đó sẽ cạnh tranh và vượt lên bất chấp sự ảnh hưởng của các phía xung đột. Trong cuộc đấu tranh một mất một còn này các bên thường sử dụng lợi thế của mình để giành chiến thắng.
Hợp tác: Khi một phía mong muốn thỏa mãn hoàn toàn mối quan tâm của cả hai bên, họ có xu hướng hợp tác và nỗ lực hướng đến một kết quả chung cùng có lợi. Trong hợp tác, hành vi của các phía là nhằm mục đích giải quyết vấn đề và loại bỏ bất đồng hơn là dung nạp các quan điểm khác nhau. Các phía xung đột đánh giá đầy đủ khả năng lựa chọn, những điểm đồng thuận và bất đồng chính trong các quan điểm hoặc các nguyên nhân bất đồng. Hợp tác thường được xem là cách thức giải quyết xung đột cùng có lợi vì giải pháp đưa ra đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Biện pháp này thường được các nhà tư vấn hôn nhân sử dụng.
Né tránh: Một phía có thể ý thức được sự tồn tại của xung đột nhưng họ phản ứng bằng cách rút khỏi hoặc dập tắt xung đột đó. Sự thờ ơ hoặc mong muốn tránh bất đồng công khai có thể dẫn tới việc rút khỏi xung đột: Các bên chấp nhận sự chia rẽ cơ học và mỗi bên chiếm giữ phần "lãnh thổ' đã được xác định của mình. Nếu việc rút khỏi xung đột không thể thực hiện được, các phía có thể dập tắt nó bằng cách kiềm chế các bất đồng. Khi các thành viên của nhóm buộc phải cộng tác với nhau vì tính phụ thuộc lẫn nhau trong các công việc của họ, việc dập tắt xung đột thường được lựa chọn nhiều hơn so với rút khỏi xung đột.
Dung nạp. Khi một bên mong muốn xoa dịu bên kia, họ có thể sẵn sàng đặt các lợi ích của các phía đối lập lên trên lợi ích của mình. Để duy trì quan hệ, một phía sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình. Hành vi này được gọi là dung nạp. Đây cũng là cách phổ biến giải quyết bất đồng giữa các cặp vợ chồng.
Thỏa hiệp: Trong thỏa hiệp, không'có người chiến thắng và người thua một cách rõ ràng. Đúng' hơn là, có sự chia sẻ các quyền lợi trong xung đột hoặc nếu không thể chia sẻ, phía này sẽ bù đắp lại cho phía kia bằng cách nhân nhượng những lợi ích có giá trị thay thế. Do đó, điểm đặc trung của thỏa hiệp là mỗi bên phải từ bỏ một số lợi ích nhất định. Trong các cuộc đàm phán giữa công đoàn và ban giám đốc, phải có sự thỏa hiệp để tìm ra giải pháp và đạt được thỏa thuận về hợp đồng lao động.
Tác động của Văn hóa đối với Hành vi: Phương pháp giải quyết xung đột, ở một mức độ nào đó, sẽ chịu sự tác động của nguồn gốc văn hóa.
Giai đoạn IV. Các kết quả
Những kết quá chức năng: Xung đột có thể nâng cao hoạt động của nhóm như thế nào? Không dễ dàng hình dung một hoàn cảnh ở đó xung đột công khai hoặc có tính bạo lực có thể có ý nghĩa tích cực nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng xung đột ở mức độ thấp và ôn hòa có thể cải thiện hiệu quả hoạt động của nhóm.
Xung đột sẽ hữu ích khi nó nâng cao chất lượng các quyết định, thúc đẩy sáng tạo và đổi mới, khuyến khích sự quan tâm của các thành viên trong nhóm, tạo ra môi trường giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả, xóa bỏ căng thẳng và thúc đấy người lao động tự đánh giá và tự hoàn thiện bản thân mình. Thực tế cho thấy xung đột có thể nâng cao chất lượng việc ra quyết định, nhất là những quyết định quan trọng trên cơ sở xem xét tất cả các quan điểm, đặc biệt những quan điểm bất thường hoặc ý kiến của nhóm thiểu số. Xung đột ngăn chặn những quyết định thiếu thận trọng dựa trên những nhận thức sai lầm, đánh giá phiến diện về tình hình thực tế Xung đột thúc đẩy sự sáng tạo, tăng cường việc đánh giá lại các mục tiêu, hoạt động và nâng cao khả năng thích ứng của cá nhân đối với các thay đổi trong nhóm.
Kết quả phi chúc năng: Hậu quả tiêu cực của xung đột đối với hoạt động của nhóm hoặc tổ chức nhìn chung được nhiều người biết đến. Người ta cho rằng: Tình trạng đối lập làm phát sinh sự bất mãn, là yếu tố phá vỡ các mối quan hệ chung dẫn đến sự sụp đổ của nhóm. Thực tế đã chứng minh rằng các xung đột phi chức năng làm giảm hiệu quả hoạt động của nhóm. Hậu quả là việc truyền tải thông tin bị cản trở, sự gắn kết trong nhóm giảm sút và các mục tiêu của nhóm hoàn toàn phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giữa các thành viên. ở mức độ cao nhất, xung đột có thể chấm dứt hoạt động của nhóm, đe dọa sự tồn tại của nhóm.

Download toàn bộ bài viết tại đây

Hành vi tổ chức - Quyền lực

___________________________________________________________________

Định nghĩa
Quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng tới các quyết định cá nhân hay tập thể - Khả năng A phải ảnh hưởng đến hành vi B để B hành động theo mong muốn của A. Hay nói cách khác, mối quan hệ của B đối với A khi A sở hữu một thứ gì đó mà B đang cần. Chẳng hạn, một người nắm giữ quyền lực có thể buộc một nhân viên dưới quyền mình phải đảm bảo tiến độ công việc chung, bất kể bản thân anh ta có muốn hay không.
Khía cạnh quan trọng nhất của quyền lực là sự phụ thuộc. Sự phụ thuộc của một người vào người khác càng lớn bao nhiêu thì quyền lực của người thứ hai đối với người thứ nhất càng mạnh bấy nhiêu.
Một người có thể có quyền lực đối với người khác chỉ khi người đó kiểm soát cái mà người kia muốn. Chẳng hạn, nếu tiền ăn học của một cá nhân nào đó hoàn toàn do một người anh cung cấp, khi đó người anh sẽ có quyền lực, bởi vì có sự phụ thuộc về tài chính trong quan hệ anh - em. Nhưng khi người đó ra trường, có công ăn việc làm và có thu nhập ổn định quyền lực của người anh có thể sẽ giảm đi đáng kể.

Tính phụ thuộc có quan hệ tỷ lệ nghịch với các nguồn cung ứng thay thế. Khi một người sở hữu bất cứ thứ gì mà những người khác đòi hỏi nhưng chỉ riêng người đó có quyền kiểm soát, thì khi đó người chủ sở hữu lập tức có quyền lực bởi vì những người khác phụ thuộc vào anh ta. Ngược lại, nếu một cái gì đó có dồi dào, việc sở hữu nó sẽ không làm tăng quyền lực. Nếu mọi người đều thông minh, thì sự thông minh sẽ không đem lại cho ai lợi thế. Trong số những người siêu giàu, tiền không phải là quyền lực. Nhưng, nếu một cá nhân có thể tạo ra một sự độc quyền bằng cách kiểm soát nguồn thông tin hoặc bất cứ thứ gì những người khác cần có, thì họ trở nên thuộc vào cá nhân đó. Ngược lại, khả năng lựa chọn càng nhiều thì sự độc quyền càng ít. Nguyên tắc này lý giải, tại sao hầu hết các tổ chức lại sử dụng nhiều nhà cung cấp chứ không mua hàng của một nhà cung cấp duy nhất Nó cũng lý giải tại sao nhiều người trong số chúng ta muốn có được sự độc lập tài chính. Độc lập tài chính làm giảm quyền lực của những người khác đối với bản thân mình.
Sự phụ thuộc tăng lên khi nguồn lực mà một cá nhân hay một tổ chức nào đó kiểm soát có ý nghĩa quan trọng và khan hiếm.

Tầm quan trọng: Nếu không một ai muốn có những gì mà một cá nhân đang kiểm soát thì sẽ không có sự phụ thuộc. Vì vậy, để tạo ra sự phụ thuộc, người ta phải kiểm soát những gì được xem là quan trọng.

Sự khan hiếm: Nếu cá nhân hay tổ chức sở hữu những gì có nhiều việc đó sẽ không làm tăng thêm quyền lực của cá nhân hay tổ chức đó. Một nguồn lực cần phải được xem là khan hiếm để tăng tính phụ thuộc. Điều này giải thích tại sao trong một tổ chức đôi khi nhân viên cấp dưới có hiểu biết hay thông tin quan trọng mà những người lãnh đạo cấp cao không có thường vượt quyền. Quan hệ giữa sự khan hiếm đối với tính phụ thuộc có khả năng tạo ra những hành vi vô lý như không thực hiện các chỉ dẫn trong công việc, khước từ việc đào tạo những người khác, tạo ra ngôn ngữ và thuật ngữ chuyên môn không cho người ngoài hiểu được công việc của họ hoặc thực hiện công việc một cách bí mật nhằm làm cho hoạt động trở nên phức tạp và khó hơn trong thực tế.
Quan hệ khan hiếm - Quan hệ phụ thuộc còn có thể được thấy nhiều hơn trong quyền lực của các loại nghề nghiệp. Những cá nhân làm các nghề mà cầu nhiều hơn cung có thể đặt ra các kêu cầu về lương bổng, phúc lợi cao hơn nhiều so với những người làm các nghề mà cung nhiều hơn cầu.
Quyền lực khác với quyền uy. Quyền lực là sức mạnh nhận được từ bên ngoài. Quyền lực có thể tồn tại nhưng không được sử dụng. Vì vậy, nó là một khả năng hay tiềm năng. Người ta có thể có quyền lực nhưng không áp đặt nó. Chẳng hạn, người lãnh đạo có quyền kỷ luật nhân viên nếu anh ta luôn không hoàn thành công việc, nhưng người lãnh đạo đã không làm điều đó khi hiểu rõ hoàn cảnh khó khăn của nhân viên này và những nguyên nhân khiến anh ta không thể hoàn thành công việc.
Quyền uy là sức mạnh phát sinh tự nhiên từ bên trong, được hình thành trên cơ sở nhân cách và khả năng thực sự của người lãnh đạo. Chẳng hạn, cách ứng xử tế nhị của người lãnh đạo có thể làm nhân viên nể trọng và nỗ lực hơn trong công việc.
Trong một tổ chức nếu quyền uy nhỏ và quyền lực lớn thì tổ chức sẽ suy thoái. Ngược lại, nếu quyền uy đi trước và quyền lực phát sinh theo sau thì tổ chức sẽ vững mạnh.

Download toàn bộ bài viết tại đây

Hành vi tổ chức - Các giai đoạn phát triển và các thuộc tính của đội nhóm

__________________________________________________________________
Các giai đoạn phát triển của đội nhóm
Sự phát triển của nhóm là một quá trình năng động, phần lớn các nhóm đều nằm trong tình trạng liên tục thay đổi. Tuy nhiên, ta có thể chia sự phát triển của nhóm ra làm 5 giai đoạn :
- Giai đoạn 1, giai đoạn hình thành: đầy thử thách, bất trắc giữa các thành viên khi họ thảo luận, bàn bạc về mục đích, cơ cấu, cách điều hành cũng như là những hành vi cần phải có của các thành viên trong đội nhóm. Giai đọan này được hòan tất khi mỗi một thành viên tự cảm thấy mình là một phần không thể thiếu của đội nhóm.
- Giai đoạn 2, giai đoạn xung đột (hay bão tố). Các thành viên của đội nhóm chấp nhận sự cần thiết của nhóm nhưng chống lại những hình thức bị buộc áp đặt của đội nhóm đối với cá nhân. Ngòai ra, cũng có sự tranh chấp ai là người đứng đầu điều khiển. Giai đoạn này được hoàn tất khi có một sự sắp xếp ngôi thứ, trật tự thứ bậc về vai trị trong đội nhóm một cách khá  rõ  ràng. 
- Giai đoạn 3, giai đoạn đi vào quy củ, trong đó các thành viên quan hệ chặt chẽ và gắn kết với nhau. Lúc này người ta thấy xuất hiện tinh thần đồng đội và đồng chí. Giai đoạn này được hồn tất khi cơ cấu của đội nhóm đã gắn kết và các thành viên đã hòan tòan nhất trí về những kỳ vọng những hành vi nào là đúng mà thành viên cần thể hiện.
- Giai đoạn 4, giai đoạn hòan thành. Lúc này cơ cấu đã hoạt động nhịp nhàng. Công sức của đội nhóm không còn là tìm hiểu, hiểu biết lẫn nhau mà là làm sao hòan thành tốt nhiệm vụ được giao phó.

Với các đội nhóm chính thức thường xuyên, giai đoạn này là giai đoạn cuối trong tiến trình phát triển. Còn những đội nhóm bất thường (tạm thời), với nhiệm vụ hạn định, thì sẽ có thêm một giai đoạn nữa, đó là giai đoạn giải tán (giai đoạn 5). Trong giai đoạn này, ưu tiên chính của đội nhóm không còn lá thành tích nữa, mà cốt là giải quyết xong xuôi mọi việc. Thái độ, hành vi của các thành viên thể hiện có thể rất khác nhau: số này thì vui vẻ vì đã hòan tất nhiệm vụ, số kia thì nhớ tiếc vì phải xa bạn xa bè sau một thời gian gắn bó thân thiết.

Các thuộc tính của đội nhóm
Vai trò
Vai trò được hiểu là người nào có một vị trí xã hội nhất định nào đó thì sẽ có những kiểu hành vi tương ứng đúng với địa vị của nó. Những hành vi ny sẽ tương đối dễ hiểu nếu chúng ta chỉ có một vai trò và nếu thể hiện chúng một cách nhất quán và thường xuyên. Nhưng tiếc thay, chúng ta đôi khi phải giữ một lúc nhiều vai diễn khác nhau, ngay trong công việc cũng như ngoài công việc, ví dụ: một người có thể vừa l một kỹ sư, vừa là một phó trưởng phòng, lại vừa là một ủy vin trong ban chấp hành công đoàn (trong một tổ chức). Chưa hết, ông ta vừa là một người cha, một người chồng, một giáo hữu của cộng đồng tôn giáo, một thành viên của câu lạc bộ thể thao,…(ngòai công việc). Mà mỗi vị trí như thế lại đài hỏi phải thể hiện hành vi một cách khác nhau, thành ra đôi khi gây ra nhiều rối rắm, xung đột.

Các chuẩn tắc và địa vị
Chuẩn tắc
Tất cả các nhóm đều phải đặt ra những chuẩn tắc. Đó là những chuẩn về thái độ, hnh vi m cả nhóm đều chia xẻ, đồng ý với nhau. Chuẩn tắc khác quy tắc ở chỗ lá các chuẩn tắc thường không được công khai viết ra. Các chuẩn tắc mách bảo cho các thành viên biết những hành vi nào được phép và hành vi nào không được phép trong những điều kiện nhất định nào đó. Một khi đạt được như thế thì các chuẩn tắc này là những phương tiện điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong nhóm mà không cần phải viện nhiều đến những hình thức kiểm soát áp đặt từ phía bên ngoài. Đội nhóm khác nhau, cộng đồng khác nhau, xã hội khác nhau thì sẽ có những chuẩn tắc khác nhau.
Các chuẩn tắc có thể bao quát hết mọi hành vi của đội nhóm. Một trong những chuẩn tắc có lẽ quan trọng nhất trong cơng việc chính là yêu cầu hồn thành kết quả công việc. Đội nhóm cho mỗi thành viên biết phải làm việc ra sao, như thế nào, mức năng suất cần đạt, …Và cũng có những chuẩn tắc khác quan trọng không kém, ví dụ: chuẩn tắc về ăn mặc, về giao tiếp,…
Địa vị
Địa vị là một vị trí hay một cương vị xã hội mà các thành viên trao phó cho mỗi người trong đội nhóm hoặc tổ chức, xã hội trao cho đội nhóm. Địa vị là một yếu tố quan trọng vì nó là một kích thích tố và có những hệ quả lớn lao khi cá nhân và những người khác có một cái nhìn khác biệt về chính địa vị mà một cá nhân nào đó nắm giữ.
Ba yếu tố làm nên địa vị:
- Quyền lực: ai kiểm soát được tài nguyên, nguồn lực và kết quả hòan thành của nhóm thì người đó có địa vị cao.
- Năng lực: qua năng lực, người nào đóng góp nhiều vào các mục tiêu của đội nhóm thì người đó có địa vị cao.
- Các đặc điểm cá nhân: các cá nhân được các thành viên đội nhóm đánh giá cao về các đặc điểm (ngoại hình, thông minh, tiền bạc, tính cách…) thì họ sẽ chiếm được địa vị cao.
Địa vị và chuẩn tắc:
Những người có địa vị cao thường ít bị ràng buộc bởi các chuẩn tắc hơn những người có địa vị thấp trong đội nhóm, họ cũng dễ đề kháng những áp lực tuân thủ của đội nhóm má chúng ta có thể kể ra nhiều trường hợp như các “sao” ở các lĩnh vực thể thao, điện ảnh, bán hàng, nghiên cứu học thuật,…
           
Qui mô đội nhóm
Quy mô của đội nhĩm có ảnh hưởng đến hành vi của các thành viên. Tuy cùng phụ thuộc một vài yếu tố khác nữa nhưng người ta có thể thấy
 -  Về hòan thnh nhiệm vụ: đội nhóm nhỏ nhanh hơn đội nhóm lớn, cá nhân trong đội nhóm nhỏ hoànn thành tốt hơn cá nhân đội nhóm lớn.
 - Về gỉai quyết vấn đề: nhóm lớn (từ 10 đến 12 người) nhanh hơn vì có nhiều nguồn thông tin hơn, ý kiến nhiều hơn, công việc có nhiều người để san sẻ...

Tuy nhiên có một phát hiện rất quan trọng liên quan đến các đội nhóm lớn, đó là tính ỷ lại tập thể hoặc ươn lười tập thể (social loafing). Tính ỷ lại hay ươn lười tập thể là xu hướng trong đó cá nhân bỏ ra ít công sức hơn khi làm việc đội nhóm so với khi làm việc cá nhân.

Sự gắn kết trong đội nhóm
Mỗi đội nhóm có mức độ gắn kết khác nhau. Ty theo thời gian gần gũi, cơ hội tương tác hoặc mức đe dọa từ ngoài vào mà đội nhĩm gắn kết với nhau nhiều hay ít. Sự gắn kết có liên hệ mật thiết với năng suất làm việc của đội nhóm.
Một vài cách thức để tạo sự gắn kết đội nhóm :
-   Số lượng người trong đội nhĩm không quá nhiều (ít người thì cơ hội tương tác xã hội sẽ nhiều hơn).
- Tạo sự đồng lòng về các mục tiêu của đội nhóm.
- Tạo điều kiện nhiều thời gian gần gũi với nhau.
- Nâng cao địa vị của nhóm và để cho mọi người thấy vào làm thành viên của nhóm là không phải dễ.
- Phần thưởng chú trọng đến đội nhóm hơn là cá nhân.
- Có một không gian vật lý sinh hoạt riêng.
  
Download toàn bộ bài viết tại đây

Hành vi tổ chức - cơ sở của hành vi nhóm

__________________________________________________________________
Khái niệm nhóm
Nhóm là một mô hình tổ chức bao gồm hai hay nhiều cá nhân, tương tác phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể.

Phân loại Nhóm
Đội nhóm chính thức: được thành lập để theo đuổi những mục tiêu nhất định và thi hành một số công việc nhất định đã được tiên liệu trong tổ chức, gồm hai loại:
- Những đội nhóm chính thức thường xuyên: nhóm lãnh đạo, nhóm công tác, nhóm cố vấn,… Các phòng ban chuyên môn trong một tổ chức cũng được xem như là những đội nhóm vì nhân viên trực tiếp quan hệ, phối hợp công việc với nhau. Một loại đội nhóm khác ngày càng trở nên phổ biến nhờ vào sự phát triển khoa học công nghệ thông tin, và do nhu cầu chia xẻ thông tin trong một thời đại kinh tế tri thức đó là đội nhóm ảo (virtual team). Đó là những đội nhóm cơ cấu thành viên không tương tác trực tiếp với nhau. Họ tác nghiệp, nối kết với nhau xuyên không - thời gian, vượt ra ngoài các biên giới của tổ chức.
- Những đội nhóm chính thức bất thường: những nhóm công tác đặc biệt được giải tán sau khi hoàn thành công tác. Ví dụ: nhóm đánh giá, nhóm cải cách thủ tục, nhóm nghiên cứu về các vấn đề lương bổng, nhóm dự án,…Một đội nhóm khác rất quan trọng cần phải được kể ra ở đây, đó là đội nhóm chức năng chéo (cross-functional). Không giống như truyền thống trước đây, đội nhóm được phân theo chuyên môn, năng lực của nhân viên (phòng tiếp thị, bộ phận sản xuất…), đội nhóm chức năng dựa trên những con người có kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn khác nhau nhưng lại bổ sung cho nhau, ví như là một ca kíp (đội nhóm) phẫu thuật
Những đội nhóm này có thể tồn tại trong một thời gian khá lâu, tuy nhiên chúng vẫn có tính chất bất thường và các người trong nhóm cũng biết rằng họ chỉ hợp tác trên căn bản bất thường.

Nhóm phi chính thức: bắt nguồn từ những nhu cầu cá nhân. Con người làm việc với tất cả nhân cách của mình và có những nhu cầu xã hội. Nếu các điều kiện làm việc (ví dụ: vị trí gần  nhau) và thời gian cho phép, họ tìm cách thỏa mãn những nhu cầu đó qua sự giao tiếp với những nhân viên khác trong tổ chức.
- Nhóm theo hệ thống ngang: những người cùng một cấp bậc hoặc cùng một khu vực.
- Nhóm theo hệ thống dọc: do nhu cầu hoàn thành công tác, qui tụ những nhân viên có nhiều cấp bậc khác nhau.
Ví dụ: nhóm qui tụ các công nhân, các giám sát viên và các trưởng phòng.
- Nhóm hỗn hợp: qui tụ những nhân viên có cấp bậc khác nhau và từ những khu vực khác nhau, thường để thỏa mãn những nhu cầu hoặc hoàn thành những nhiệm vụ mà ban lãnh đạo cấp cao không để ý đến.
Ví dụ: một trưởng xưởng giao du thân mật với những người thợ chuyên sửa chữa dụng cụ bị hư hỏng.

Vai trò của nhóm
Vai trò chính thức: quan hệ trực tiếp đến sứ mạng của tổ chức: thi hành công tác, phát biểu ý kiến, liên lạc, và hòan thành mục tiêu … Có những lúc một công việc cụ thể nào đó cần phải có nhiều người, cho nên cần phải tập hợp tài năng, kiến thức, kinh nghiệm, sức mạnh để hòan thành mục tiêu; cũng cố những vấn đề, những nhiệm vụ đòi hỏi chia xẻ thông tin, góp ý từ nhiều người mới có thể giải quyết được. Trong những trường hợp này, lãnh đạo thường dựa vào các nhóm chính thức.

Vai trò phi chính thức (vai trò tâm lý): để thoả mãn nhu cầu cá nhân.
- Nhu cầu an toàn: khi tham gia vào đội nhóm, cá nhân không còn “trơ trọi” và ít bất an hơn. Cá nhân cảm thấy mạnh mẻ, tự tin hơn để đối phó những thách thức hoặc hiểm họa.
- Có vị trí, địa vị: đối với nhiều người, gia nhập một đội nhóm được xem là quan trọng vì cá nhân được các thành viên trong đội nhóm của mình công nhận một vị trí, một địa vị.
- Nhu cầu tự trọng: ngòai sự công nhận của những người khác, đội nhóm đem lại cho các thành viên ý thức về giá trị chính mình (trọng mình). Tinh thần đồng đội cũng làm gia tăng ý thức về giá trị đối với các thành viên khác của đội nhóm (trọng người khác trong đội nhóm).
- Nhu cầu kết liên: đội nhóm có thể làm thỏa mãn các nhu cầu xã hội. Qua công việc, cá nhân được những người trong đội nhóm giúp đỡ, thương yêu,… Và đối với nhiều người, những mối tương tác này chính là suối nguồn đầu tiên làm thỏa mãn nhu cầu kết liên của họ.
- Tin tưởng vào sức mạnh: những gì ngoài khả năng của cá nhân thì nhóm có thể làm được dựa vào sức mạnh của số đông. Ví dụ: nhờ liên kết với nhau để thương lượng hoặc để đình công hoặc để hạn chế công tác,… các đội nhóm có thể làm cho ban lãnh đạo phải kính nể.

Phần lớn các đội nhóm đều có cả hai vai trò chính thức và phi chính thức. Chúng thỏa mãn nhu cầu của tổ chức cũng như cá nhân. Nó giúp đỡ cấp lãnh đạo một cách đắc lực để biết rõ những gì xảy ra trong tổ chức một cách nhanh chóng và chính xác. Phương pháp thường dùng: nói chuyện tại bàn ăn, tại câu lạc bộ, sân thể thao hoặc qua điện thoại.

Download toàn bộ bài viết tại đây

Tổng hợp câu hỏi môn hành vi tổ chức

___________________________________________________________________
Câu 1. Khái niệm  hành vi tổ chức là gì? Trình bày các chức năng và tầm quan trọng của môn hành vi tổ chức đối với nhà quản trị? Xác định đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn này?
 Khái niệm hành vi tổ chức: là hành vi của con người trong tổ chức thông qua nghiên cứu một cách hệ thống về hành vi và thái độ của con người trong mối tương tác giữa cá nhân, nhóm và tổ chức
Vai trò của hành vi tổ chức: nâng cao hiệu quả quản lý, phát huy vai trò của con người trong tổ chức, khai thác một cách tối ưu nguồn nhân lực, phát huy tính sáng tạo của con người .v.v…  tạo nên được mối quan hệ gắn bó giữa con người với tổ chức
Chức năng của hành vi tổ chức : có 3 chức năng cơ bản là : giải thích, dự đoán và kiểm soát
- Chức năng giải thích
Chức năng Giải thích của Hành vi tổ chức giúp nhà quản lý tìm cách lý giải những hành vi của cá nhân, nhóm và tổ chức. Theo quan điểm quản lý thì “Giải thích” có thể là chức năng ít quan trọng nhất trong số ba chức năng của Hành vi tổ chức bởi vì nó diễn ra khi sự việc đã xảy ra.
- Chức năng dự đoán
Dự đoán là nhằm vào các sự kiện sẽ diễn ra trong tương lai. Nó tìm cách xác định một hành động cho trước sẽ dẫn đến những kết cục nào.
- Chức năng kiểm soát
Kiểm soát là tác động đến người khác để đạt được những mục tiêu nhất định. Chức năng kiểm soát của Hành vi tổ chức là chức năng gây tranh cãi nhiều nhất. Có quan điểm cho rằng kiểm soát hành vi của người lao động là vi phạm tự do cá nhân; kiểm soát người khác khi mà bản thân người đó không biết mình bị kiểm soát là không “danh chính ngôn thuận” về mặt đạo đức. Đối lập với quan điểm này, đa số các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng kiểm soát hành vi trong khuôn khổ tổ chức là điều hết sức cần thiết. Không vi phạm quyền tư do cá nhân mà ngược lại nó có tác dụng bảo vệ cá nhân và đảm bảo đạt được mục tiêu của tổ chức.
Trong thực tế, các nhà quản lý ngày càng áp dụng các công nghệ, kỹ thuật hiện đại để kiểm soát người lao động trong tổ chức của mình và các nhà quản lý đều nhận thức rằng kiểm soát là chức năng quan trọng của Hành vi tổ chức nó đảm bảo tính hiệu quả trong công việc của tổ chức.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hành vi của con người trong tổ chức
- Môn học giúp các nhà quản trị giải thích, dự đoán, kiểm soát hành vi một cách tốt hơn
- Nội dung môn học được thể hiện qua 3 cấp độ là : cá nhân, nhóm, tổ chức và dựa trên 5 biến số là : Hiệu quả, vắng mặt, nghĩ việc ( luân chuyển). thoả mãn công việc và hành vi mang tính tập thể

Câu 2.Trong đặt tính tiểu sử, anh chị hãy cho biết biến số nào có thể dự đoán tốt hiệu quả công việc? Tỷ lệ vắng mặt? Tỷ lệ nghỉ việc? Mức độ hài lòng trong công việc? Trong điều kiện cụ thể nào có liên quan đến khả năng và tính cách của cá nhân giúp cho cá nhân đó có kết quả làm việc tích cực?

Trong đặc tính tiểu sử, biến số "thâm niên" có thể dự đoán tốt hiệu quả công việc, tỷ lệ vắng mặt, tỷ lệ nghĩ việc và mức độ hài lòng trong công việc
Trong điều kiện khả năng và tính cách cá nhân phù hợp với yêu cầu công việc, có thể nâng cao hiệu quả làm việc của họ. Khi đó sự thỏa mãn là cao nhất và mức độ nghĩ việc, bỏ việc là thấp nhất.

Khả năng nhân viên liên quan đến năng lực cá nhân thực hiện các nhiệm vụ ở một vị trí công tác. Thông thường khả năng được đáng giá qua những gì nhân viên có thể làm được trong một tổ chức. Khả năng nhân viên được cấu thành từ 2 yếu tố chính: khả năng tư duy và khả năng hành động.

Câu 3. Tình huống đặt ra: Câu phát biểu “Tất cả các công ty đều có lợi khi thuê những người thông minh (khả năng trí tuệ) làm việc cho mình”. Bạn có đồng ý hay không? Giải thích?
a. Khả năng tư duy
Liên quan đến những năng lực cần thiết thực hiện các hoạt động nghiêng về mặt tư duy bao gồm khả năng tính toán, đọc hiểu, tốc độ nhận thức - diễn giải hay quy nạp, khả năng tưởng tượng và ghi nhớ.
Trong tổ chức, ở các vị trí có mức độ phức tạp cao tương quan với mức lương cao sẽ sử dụng càng nhiều tới khả năng tư duy trong giải quyết công việc. Đối với các chức danh công việc thuộc nhóm thừa hành khi làm việc rất ít sử dụng đến khả năng này.

Download toàn bộ bộ câu hỏi ôn tập tại đây