Showing posts with label chính sách tài khóa. Show all posts
Showing posts with label chính sách tài khóa. Show all posts

Kinh tế vĩ mô - Chính sách tài khóa và tiền tệ trong mô hình IS-LM-BP

__________________________________________________________________
1. Chính sách tài khóa và tiền tệ dưới hệ thống tỷ giá cố định.
1.1. Chính sách tài khóa
Giả sử chính phủ tăng chi tiêu G, đường IS dịch chuyển sang phải, sản lượng tăng từ Y lên Y’ và lãi suất trong nước tăng làm cho i > if, luồng vốn di chuyển vào trong nước tăng lên làm tăng cung ngoại tệ, để giữ tỷ giá không đổi (không giảm) NHTW sẽ phải mua vào ngoại tệ bằng cách tăng cung tiền VND. Khi cung tiền M/P tăng, đường LM dịch chuyển sang phải cho đến khi i = if (i giảm xuống). Kết quả là sản lượng tăng từ Y’ lên Y’’ tổng hợp của hai lần tăng sản lượng là sản lượng tăng rất nhiều, như vậy chính sách tài khóa rất hiệu quả. Tác động của chính sách này có thể biểu diễn qua hình vẽ dưới đây.
Hình: Chính sách tài khóa hiệu quả dưới hệ thống tỷ giá hối đoái cố định

1.2. Chính sách tiền tệ.
Giả sử NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, đường LM dịch chuyển sang phải làm lãi suất trong nước giảm xuống, khi i < if vốn di chuyển ra nước ngoài, cầu ngoại tệ tăng, NHTW phải bán ngoại tệ ra để giữ tỷ giá làm cung nội tệ (M/P) giảm xuống. Khi cung tiền M/P giảm thì đường LM lại dịch ngược sang trái (trở lại vị trí ban đầu). Kết quả là không có ảnh hưởng đến sản lượng hay chính sách tiền tệ không hiệu quả.
Như vậy, chúng ta không thể có một chính sách tiền tệ độc lập dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định.

Hình: Chính sách tiền tệ không hiệu quả dưới hệ thống tỷ giá hối đoái cố định

2. Chính sách tài khóa và tiền tệ dưới hệ thống tỷ giá thả nổi.
2.1. Chính sách tài khóa
Giả sử chính phủ tăng chi tiêu G, đường IS dịch chuyển sang phải, sản lượng tăng và lãi suất trong nước tăng làm cho i > if, luồng vốn di chuyển vào trong nước tăng lên làm tăng cung ngoại tệ. Tuy nhiên, đối với hệ thống tỷ giá thả nổi, NHTW sẽ không phải can thiệp  vào thị trường ngoại tệ nên cung tiền VND không đổi. Khi cung ngoại tệ tăng thì tỷ giá sẽ giảm dẫn đến xuất khẩu ròng NX giảm, đường IS lại dịch ngược sang trái, cả sản lượng và lãi suất đều giảm và trở về vị trí ban đầu (vì số nhân của G và xuất khẩu X như nhau). Kết quả sau cùng là sản lượng không đổi. Như vậy chính sách tài khóa không hiệu quả.
Nếu khi chi tiêu chính phủ G tăng mà dẫn đến xuất khẩu ròng NX giảm gọi là sự tháo lui quốc tế (crowding out).
Hình: Chính sách tài khóa không hiệu quả dưới hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi
2.2. Chính sách tiền tệ.
Giả sử NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, đường LM dịch chuyển sang phải làm lãi suất trong nước giảm xuống và sản lượng tăng, khi i < if vốn di chuyển ra nước ngoài, cầu ngoại tệ tăng nên tỷ giá tăng, nhưng trong hệ thống tỷ giá thả nổi NHTW không phải can thiệp vào thị trường ngoại tệ nên cung nội tệ (M/P) không thay đổi. Khi cầu ngoại tệ tăng thì tỷ giá sẽ tăng dẫn đến xuất khẩu ròng NX tăng, đường IS dịch sang phải, sản lượng và lãi suất lại tăng. Kết quả sau cùng là sản lượng tăng mạnh. Như vậy chính sách tiền tệ rất hiệu quả.
 Hình:  Chính sách tiền tệ hiệu quả dưới hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi

Lưu ý: Những mô hình trên đều giả định rằng mức giá không thay đổi.

Tóm tắt kết quả các chính sách (mô hình Mundell - Flemming)
Chính sách
(mở rộng)
Tỷ giá thả nổi
Tỷ giá cố định
Y
NER
NX
Y
NER
NX
Tài khóa
0
-
-
+
0
0
Tiền tệ
+
+
+
0
0
0

Ghi chú: dấu (+) là tăng, dấu (-) là giảm và số (0) là không có tác động.

3. Đẳng thức tiết kiệm và đầu tư
Tại vị trí cân bằng của nền kinh tế, chúng ta có: Y = C + I + G + X - M
Yd = Y – TN = (C + I + G + X - M) - TN
Và chúng ta có: Yd = C + S, thay vào công thức trên chúng ta có:
C + S = (C + I + G + X - M) - TN óI = S + (M - X) + (T- G)
Khi cán cân thanh toán cân bằng thì:
BP = 0 tức BP = NX + CF = 0 ó  CF = - NX = -(X - M) = M – X
Thay vào công thức trên ta có:
I = S + CF + (TN  – G) = SP + CF + SG = SP + SF + S¬G
Công thức này nói lên rằng tổng cầu đầu tư trong nước bằng (tài trợ bởi) tổng tiết kiệm của khu vực tư nhân, khu vực chính phủ và dòng vốn đầu tư từ nước ngoài (CF).

Download toàn bô bài viết tại đây

Kinh tế vĩ mô - Đường tổng cung Keynes

___________________________________________________________________

1. Đường tổng cung Keynes
Đường tổng cung Keynes giả định các doanh nghiệp sẽ cung cấp bất kỳ mức sản lượng yêu cầu nào tại mức giá hiện tại. Điều này xảy ra khi có tỷ lệ thất nghiệp cao và các doanh nghiệp có thể thuê bất kỳ số lượng lao động nào mà họ muốn tại mức lương hiện tại.

Trong trường hợp này đường tổng cung là đường nằm ngang tại mức giá ban đầu, có nghĩa là tổng cung hoàn toàn co giãn theo giá.

Đường tổng cung Keynes dựa trên giả thuyết là các thị trường, đặc biệt là thị trường lao động, không phải lúc nào cũng cân bằng và trong nền kinh tế luôn có tình trạnh thất nghiệp.
 Hình: đường tổng cung Keynes
 Hình: thị trường lao động trong tổng cung Keynes

Đường cung về lao động là đường nằm ngang, có độ co giãn hoàn toàn tại mức lương hiện tại. Do đó, các doanh nghiệp có thể thuê tất cả số lao động muốn mà không ảnh hưởng đến mức lương (lương không tăng).
Như vậy, trong mô hình tổng cung Keynes, giá cả và tiền lương không đổi.

2. Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong tổng cung Keynes
Giả sử rằng có sự gia tăng về tổng cầu AD do chi tiêu chính phủ tăng hay cung tiền tăng, đường AD dịch chuyển sang phải. Tuy nhiên, đường tổng cung Keynes là đường nằm ngang nên ảnh hưởng dài hạn là sự thay đổi về thu nhập thực tại mức giá hiện tại P1.
 Hình: chính sách tài khoá và tiền tệ có ảnh hưởng đến sản lượng cân bằng

Tóm tắt ảnh hưởng của chính sách tài khoá và tiền tệ (mở rộng).

Chính sách
Tổng cung
Sản lượng
Lãi suất
Giá cả
Tài khoá
Keynes
+
+
0
Cổ điển
0
+
+
Tiền tệ
Keynes
+
-
0
Cổ điển
0
+
+
Ghi chú: (+) có tác động tăng; (-) có tác động giảm; (0) không tác động

Hai trường hợp đặc biệt trên về đường tổng cung AS phản ánh hai quan điểm khác nhau về sự hoạt động của giá cả và tiền lương trong nền kinh tế thị trường.
Trong mô hình cổ điển khẳng định rằng những điều chỉnh trong giá cả và tiền lương xảy ra nhanh chóng (rất linh hoạt) trong khi đó trong mô hình Keynes lại khẳng định giá cả và tiền lương là cứng nhắc. Sự khác nhau này còn bao hàm cả quan điểm khác nhau về tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế.

Sự khác nhau của hai trường phái là tốc độ của quá trình điều chỉnh nền kinh tế. Do đó, đến nay các nhà kinh tế học đã thống nhất thừa nhận rằng mô hình Keynes mô tả hành vi nền kinh tế trong ngắn hạn, còn mô hình cổ điển mô tả hành vi nền kinh tế trong dài hạn.
Trong thực tế, theo trường phái Tân cổ điển, giá cả và tiền lương không hoàn toàn linh hoạt và cũng không hoàn toàn cứng nhắc. Đường tổng cung AS trong thực tế phải là một đường dốc lên nhất định.

Download toàn bộ bài viết tại đây

Mối quan hệ giữa độ dốc đường LM và hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

___________________________________________________________________

1. Đường LM dốc
Đường LM dốc có nghĩa là cầu tiền kém nhạy cảm đối với lãi suất (hệ số co giãn h nhỏ). Bây giờ chúng ta xem xét tính hiệu quả của tác động của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong mô hình IS – LM.

- Chính sách tài khoá
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng ít khi thực hiện chính sách tài khóa

Quan sát hình vẽ trên đây chúng ta thấy, nếu khi thực hiện chính sách tài khoá mở rộng, chính sách tài khoá tỏ ra kém hiệu quả (tác động nhỏ đến sản lượng). Mặc dù lãi suất thị trường tăng nhưng cầu tiền đầu cơ giảm ít (do cầu tiền kém nhạy cảm đối với lãi suất) vì vậy cầu tiền giao ḍich tăng ít để đảm bảo thị trường tiền tệ cân bằng (cung tiền không đổi). Khi cầu tiền giao dịch tăng ít, điều này có nghĩa là sản lượng Y tăng ít (với một hệ số k cho trước). Như vậy, chính sách tài khoá kém hiệu quả (tác động lên sản lượng nhỏ).

- Chính sách tiền tệ
Giả sử NHTW thực hiện chính sách tăng cung tiền (đường LM dịch sang phải), do đường LM dốc nên khi lãi suất giảm thì cầu tiền đầu cơ L2 tăng ít. Khi L2 tăng ít thì buộc cầu tiền giao dịch L1 tăng nhiều để cân bằng với mức cung tiền mới đã tăng lên. Khi cầu tiền giao dịch tăng nhiều có nghĩa là sản lượng hay thu nhập phải tăng lên nhiều. Như vậy chính sách tiền tệ trong trường hợp này có hiệu quả (chính sách tiền tệ tác động lên sản lượng cân bằng Y lớn, hãy quan sát hình vẽ dưới đây).
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng nhiều khi thực hiện chính sách tiền tệ

2. Đường LM thoải
Đường LM thoải có nghĩa là cầu tiền rất nhạy cảm đối với lãi suất (hệ số co giãn h nhỏ). Bây giờ chúng ta xem xét tính hiệu quả của tác động của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong mô h́nh IS – LM.

- Chính sách tài khoá
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng nhiều khi thực hiện chính sách tài khóa

Quan sát hình vẽ trên đây chúng ta thấy, nếu khi thực hiện chính sách tài khoá mở rộng, chính sách tài khoá tỏ ra rất hiệu quả (tác động khá lớn đến sản lượng). Khi lãi suất suất thị trường tăng làm cầu tiền đầu cơ giảm nhiều (do cầu tiền rất nhạy cảm đối với lãi suất) vì vậy cầu tiền giao dịch phải tăng nhiều để đảm bảo thị trường tiền tệ cân bằng (cung tiền không
đổi). Khi cầu tiền giao dịch tăng nhiều thì điều này có nghĩa là sản lượng Y tăng nhiều (với một hệ số k cho trước). Như vậy, chính sách tài khoá khá hiệu quả (tác động lên sản lượng lớn).

- Chính sách tiền tệ
Giả sử NHTW thực hiện chính sách tăng cung tiền, đường LM dịch sang phải, do đường LM thoải do đó khi lãi suất giảm thì cầu tiền đầu cơ L2 tăng nhiều (do cầu tiền rất nhạy cảm đối với lãi suất). Khi L2 tăng nhiều thì buộc cầu tiền giao dịch L1 tăng ít để cân bằng với mức cung tiền mới đã tăng lên. Khi cầu tiền giao dịch tăng ít có nghĩa là sản lượng hay thu nhập phải tăng lên ít. Như vậy chính sách tiền tệ trong trường hợp này kém hiệu quả (chính sách tiền tệ tác động lên sản lượng cân bằng Y nhỏ, hãy quan sát hình dưới đây).
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng ít khi thực hiện chính sách tiền tệ

3.  Đường LM nằm ngang
Đường LM nằm ngang tức là cầu tiền co giãn hoàn toàn đối với lãi suất (hệ số h vô cùng lớn). Chúng ta hãy xem xét tính hiệu quả của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong trường hợp này.

- Chính sách tài khoá
Do đường LM nằm ngang nên khi thực hiện chính sách tài khoá mở rộng thì sản lượng sẽ tăng nhưng lãi suất không tăng. Do lãi suất thị trường không tăng nên  không có tác động vòng 2 (tức không có tác động ngược làm giảm sản lượng). Như vậy chính sách tài khoá hoàn toàn hiệu quả như trong mô hình Keynes giản đơn.
 Hình: Chính sách tài khóa hoàn toàn hiệu quả
- Chính sách tiền tệ
Quan sát hình vẽ dưới đây chúng ta thấy nếu khi thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì hoàn toàn không ảnh hưởng đến lãi suất do đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến sản lượng, sản lượng không thay đổi. Như vậy chính sách tiền tệ hoàn toàn không hiệu quả. Trường hợp này người ta gọi là bẩy thanh khoản (liquidity trap).
 Hình: Chính sách tiền tệ hoàn toàn không hiệu quả

4. Đường LM thẳng đứng
Đương LM thẳng đứng tức là cầu tiền hoàn toàn không co giãn đối với lãi suất (hệ số h bằng không). Chúng ta hãy xem xét tính hiệu quả của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong trường hợp này.

- Chính sách tài khoá
Giả sử chính phủ thực chính sách tài khoá mở rộng, các tác động của chính sách này như sau:
Tác động vòng 1: khi tăng chi tiêu chính phủ G thì sản lượng cân bằng Y và lãi suất đều tăng
Tác động vòng 2: khi lãi suất tăng thì đầu tư I giảm, tổng cầu AD giảm và sản lượng giảm.
Tác động của vòng 1 bằng tác động của vòng 2 hay có sự chèn lấn đầu tư toàn bộ. Tổng cầu và sản lượng không đổi chỉ có cơ cấu của tổng cầu thay đổi: chi tiêu chính phủ tăng trong khi đó đầu tư giảm xuống.
Cũng có thể giải thích theo cách khác như sau: khi tăng G thì đường IS dịch chuyển sang phải, lãi suất tăng lên. Tuy nhiên, do cầu tiền hoàn toàn không co giãn theo lãi suất nên L2 không đổi, mà do cung tiền cố định nên buộc L1 phải cố định để thị trường tiền tệ cân bằng. Khi cầu tiền L1 cố định tức sản lượng Y cũng không đổi. Như vậy chính sách tài khoá hoàn toàn không hiệu quả.
 Hình: Chính sách tài khóa hoàn toàn không hiệu quả

- Chính sách tiền tệ
Giả sử NHTW tăng cung tiền, tức M/P tăng, làm giảm lãi suất dẫn đến tăng đầu tư và tăng sản lượng. Do cầu tiền hoàn toàn không phụ thuộc vào lãi suất nên khi cung tiền tăng (lãi suất giảm) chỉ ảnh hưởng đến L1 (tăng lên), và do đó chỉ cầu tiền giao dịch L1 tăng (khi sản lượng Y tăng). Như vậy chính sách tiền tệ rất có hiệu quả.
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng ít khi thực hiện chính sách tiền tệ

Download toàn bộ bài viết tại đây

Kinh tế vĩ mô - Mối quan hệ giữa độ dốc đường IS và hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

___________________________________________________________________
 
1. Đường IS dốc
Đường IS dốc khi đầu tư ít nhạy cảm đối với lãi suất (hệ số d nhỏ). Trong trường hợp này chúng ta xem xét tính hiệu quả của tác động của chính sách tài khoá và tiền tệ vào mô h́nh IS – LM.

- Chính sách tài khoá
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng nhiều khi thực hiện chính sách tài khóa

Quan sát hình vẽ trên chúng ta thấy rằng nếu khi thực hiện chính sách tài khoá mở rộng, chính sách tài khoá tỏ ra rất hiệu quả (tác động đến sản lượng khá lớn). Nguyên nhân là ảnh hưởng chèn lấn đầu tư không đáng kể. Mặc dù lãi suất thị trường bị đẩy lên nhưng đầu tư giảm không đáng kể do đầu tư kém nhạy cảm đối với lãi suất vì vậy tác động ngược ở vòng 2 không đáng kể nên sản lượng tăng gần xấp xỉ với trường hợp trong mô h́nh Keynes giản đơn.

- Chính sách tiền tệ
Giả sử thực hiện chính sách tăng cung tiền, đường LM dịch chuyển sang phải, làm lãi suất thị trường giảm xuốngđáng kể nhưng vì đầu tư ít nhạy cảm với lãi suất nên đầu tư chỉ tăng lên rất ít. Chính v́ vậy mà sản lượng chỉ tăng lên một lượng rất nhỏ. Như vậy, chính sách tiền tệ trong trường hợp này không hiệu quả (tác động lên sản lượng cân bằng rất nhỏ).
 Hình:  Sản lượng cân bằng tăng ít khi thực hiện chính sách tiền tệ

2. Đường IS thoải
Đường IS thoải khi đầu tư rất nhạy cảm đối với lãi suất (hệ số d lớn). Bây giờ chúng ta xem xét tính hiệu quả của tác động của chính sách tài khoá và tiền tệ vào mô h́nh IS – LM.

- Chính sách tài khoá
Quan sát hình vẽ dưới đây chúng ta thấy rằng nếu khi thực hiện chính sách tài khoá mở rộng, chính sách tài khoá tỏ ra kém hiệu quả (tác động đến sản lượng nhỏ). Nguyên nhân là ảnh hưởng chèn lấn đầu tư rất lớn. Mặc dù lãi suất thị trường tăng lên ít nhưng đầu tư giảm đáng kể do đầu tư rất nhạy cảm đối với lãi suất vì vậy tác động ngược ở vòng 2 khá lớn nên làm cho sản lượng giảm nhiều. Tác động sau cùng là sản lượng có tăng từ Y1 lên Y2 nhưng sản lượng tăng không lớn.
 Hình: Sản lượng cân bằng tăng ít khi thực hiện chính sách tài khóa

- Chính sách tiền tệ
Giả sử thực hiện chính sách tăng cung tiền, đường LM dịch chuyển sang phải, làm lãi suất thị trường giảm xuống không đáng kể (vì IS thoải) nhưng vì đầu tư rất nhạy cảm với lãi suất nên đầu tư tăng lên rất nhiều. Chính vì vậy mà sản lượng tăng lên một lượng khá lớn. Như vậy chính sách tiền tệ trong trường hợp này khá hiệu quả (tác động lên sản lượng cân bằng khá lớn).
 Hình : Sản lượng cân bằng tăng nhiều khi thực hiện chính sách tiền tệ

3. Đường IS thẳng đứng
Đường IS thẳng đứng khi đầu tư hoàn toàn không co giãn theo lãi suất. Khi đó sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào ảnh hưởng đến lãi suất thì cũng không làm đầu tư thay đổi và do đó không tác động đến sản lượng. Đường IS thẳng đứng tại mức sản lượng hiện tại.

- Chính sách tài khoá
Giả sử chính phủ tăng chi tiêu G, chính sách tài khoá có ảnh hưởng đến sản lượng và lãi suất nhưng sự thay đổi của lãi suất không ảnh hưởng đến đến đầu tư vì đầu tư không co giãn theo lãi suất. Do đó, không có ảnh hưởng chèn lấn đầu tư do chính sách tài khoá gây ra, chính sách tài khoá trong trường hợp này có hiệu quả.
 Hình: Chính sách tài khóa có hiệu quả

- Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ chỉ làm thay đổi lãi suất. Tuy nhiên do đầu tư hoàn toàn không co giãn theo lãi suất nên sự thay đổi lãi suất không làm thay đổi đầu tư và do đó không làm thay đổi sản lượng. Như vậy, chính sách tiền tệ hoàn toàn không hiệu quả.
 Hình: Chính sách tiền tệ không hiệu quả

4. Đường IS nằm ngang
Đường IS nằm ngang khi đầu tư hoàn toàn co giãn theo lãi suất. Khi đó sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào dẫn đến thay đổi lãi suất đều làm đầu tư thay đổi rất lớn và do đó làm sản lượng thay đổi.

- Chính sách tài khoá
Giả sử chính phủ thực hiện chính sách tài khoá (tăng chi tiêu G), chính sách tài khoá không ảnh hưởng đến lãi suất và lãi suất. Do vậy chính sách tài khoá không hiệu quả.
  Hình: Chính sách tài khóa hoàn toàn không hiệu quả
- Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ không làm thay đổi lãi suất nhưng làm thay đổi sản lượng. (Thực ra khi thay đổi cung tiền lãi suất sẽ thay đổi. Ngay khi có một sự thay đổi nhỏ của lãi suất dẫn đến sự thay đổi lớn của đầu tư và sản lượng). Do không có sự thay đổi của lãi suất nên cầu đầu cơ L2 không thay đổi, toàn bộ sự thay đổi của mức cung tiền sẽ tác động lên mức cầu tiền giao dịch L1, dẫn đến sự thay đổi lớn trong sản lượng. Như vậy chính sách tiền tệ hoàn toàn có hiệu quả.

Hình: Chính sách tiền tệ hoàn toàn hiệu quả


Download toàn bộ bài viết tại đây

Kinh tế vĩ mô - chính sách tài khóa

___________________________________________________________________

1. Chính sách tài khóa trong lý thuyết.
Chính sách tài khóa là việc Chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu  công cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế.
Giả sử trong nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, Chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế sẽ khiến sản lượng tăng lên và mức việc làm đầy đủ có thể khôi phục lại.
Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng phát đạt quá mức, lạm phát tăng lên, Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại.
Tuy nhiên, trong thực tế, chính sách tài khóa không có đủ sức mạnh như vậy nên khi nền kinh tế không ổn định, chu kỳ kinh doanh chưa được khắc phục hoàn toàn.

2. Chính sách tài khóa trong thực tế.
Trước khi nghiên cứu những vấn đề áp dụng chính sách tài khóa trong thực tiễn, ta xem xét một cơ chế đặc biệt của chính sách này. Đó là cơ chế ổn định tự động:
            - Hệ thống thuế có vai trò như một bộ tự ổn định tự động nhanh và mạnh như việc áp dụng phương pháp lũy tiến trong thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp.
            - Hệ thống bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm thất nghiệp và các chuyển khoản mang tính chất xã hội khác hoạt động khá nhạy cảm trong việc bơm tiền vào và rút tiền ra khỏi nền kinh tế góp phần ổn định hệ thống kinh tế.
Tuy nhiên, trong thực tế chính sách tài khóa bị nhiều hạn chế:
- Khó tính toán một cách chính xác liều lượng cần thiết của chính sách.
- Chính sách tài khóa có độ trễ bên trong và bên ngoài do phụ thuộc vào các yếu tố chính trị và cơ cấu tổ chức bộ máy khá lớn. Độ trễ bên trong gồm thời gian thu nhập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định. Độ trễ bên ngoài bao gồm quá trình phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng.
- Chính sách tài khóa thường được thực hiện thông qua các dự án công cộng xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã hội với kết quả đa số dự án kém hiệu quả kinh tế.

3. Chính sách tài khóa và vấn đề thâm thụt ngân sách.
3.1. Khái niệm về thâm hụt ngân sách.
Ngân sách Nhà nước là tổng các kế hoạch chi tiêu và thu nhập hàng năm của chính phủ bao gồm các khoản thu chủ yếu từ thuế, các khoản chi ngân sách.
Gọi B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách, ta có:
B = T – G   (1)
Khi B > 0 ta có thặng dư ngân sách.
Khi B = 0 ta có cân bằng ngân sách
Khi b < 0 ta bị thâm thụt ngân sách.
Khi nghiên cứu vấn đề thâm hụt ngân sách, cần phân biệt  3 khái niệm:
- Thâm hụt ngân sách thực tế: Chênh lệch giữa số chi thực tế, số thu thực tế trong một thời kỳ nhất định.
- Thâm hụt ngân sách cơ cấu: thâm hụt tính toán trong trường hợp nếu nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
- Thâm thụt ngân sách chu kỳ: Thâm thụt ngân sách bị động do tình trạng của chu kỳ kinh doanh.
Thâm hụt chu kỳ bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu. Trong 3 loại thâm hụt trên, thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ quan của chính sách tài khóa như: định ra thuế suất phúc lợi, bảo hiểm... Vì vậy, để đánh giá kết quả của chính sách tài khoá phải sử dụng thâm hụt cơ cấu.
3.2 Chính sách tài khoá cùng chiều và chính sách tài khoá ngược chiều:
Từ công thức   (1), ta thấy hàm ngân sách có dạng đơn giản như sau:
B=tY-G
Trong đó:    B: Cán cân ngân sách
                    G: Chi tiêu ngân sách
                    tY: Thu ngân sách
           
            - Nếu Chính phủ thiết lập một chính sách thu chi ngân sách sao cho tại mức sản lượng tiềm năng thì ngân sách là cân bằng, ta có:
             B =  tY - G = 0
            hay:     G = tY
Như vậy, mức thu nhập hay sản lượng < sản lượng tiềm năng thì ngân sách sẽ thâm hụt. Ngược lại, ngân sách sẽ thặng dư.
- Nếu mục tiêu của Chính phủ là luôn đạt được ngân sách cân bằng dù sản lượng thay đổi như thế nào thì chính sách đó gọi là chính sách tài khoá cùng chiều. Khi kinh tế suy thoái, ngân sách thâm hụt, Chính phủ phải giảm chi tiêu hoặc tăng thuế hoặc sử dụng cả 2 biện pháp để ngân sách được cân bằng. Đổi lại chi tiêu nền kinh tế giảm, sản lượng giảm, suy thoái sẽ sâu sắc thêm.
Ngược lại, nếu mục tiêu Chính phủ là giữ cho nền kinh tế luôn ở mức sản lượng tiềm năng với mức việc làm đầy đủ thì Chính phủ thực hiện chính sách tài khoá ngược chiều. Khi nền kinh tế suy thoái, Chính phủ cần tăng chi tiêu hoặc giảm thuế hoặc áp dụng cả 2 biện pháp nhằm giữ cho chi tiêu ở mức cao, sản lượng tăng lên đến sản lượng tiềm năng. Đổi lại ngân sách sẽ bị thâm hụt cơ cấu do chính sách chủ quan của Chính phủ.
Việc Chính phủ theo đuổi chính sách cùng chiều hay ngược chiều (với chu kỳ kinh doanh) phụ thuộc rất nhiều vào chu kỳ chính trị, vào các tình huống cụ thể của mỗi nước ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
4. Thâm hụt ngân sách và vấn đề tháo lui đầu tư:
Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động gây nên thâm hụt cơ cấu và kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
- Cơ chế tháo lui đầu tư: Khi G tăng hoặc T giảm, GNP sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền tăng theo. Với mức cung về tiền cho trước, lãi suất sẽ tăng theo bóp nghẹt một số đầu tư. Kết quả là một phần GNP tăng lên sẽ bị mất đi và tác động của chính sách tài khoá sẽ giảm đi. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khoá và tiền tệ trong việc giải quyết vấn đề suy thoái kinh tế.
5. Các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách:
Trường hợp các biện pháp hạn chế thâm hụt ngân sách mà cơ bản là “tăng thu giảm chi” không giải quyết được toàn bộ thâm hụt, các Chính phủ phải sử dụng các biện pháp tài trợ cho thâm hụt. Có 4 biện pháp tài trợ:
- Vay nợ trong nước (vay dân)
- Vay nợ nước ngoài
- Sử dụng dự trữ  ngoại tệ
- Vay ngân hàng (in tiền)
Mỗi biện pháp đều có thể gây ảnh hưởng phụ đến nền kinh tế nên phải có biện pháp hạn chế và trung hoà các ảnh hưởng này, làm cho chúng không gây nên những tác động xấu đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
6. Chính sách tài khoá và vấn đề thâm hụt ngân sách của nước ta trong thời gian qua:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính chất “cấp phát và giao nộp”, “thu để chi”, thuế và ngân sách chưa thật sự là những công cụ điều tiết vĩ mô.
Khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền tài chính quốc gia từng bước được đổi mới:
- Vấn đề cấp bách đầu tiên là giảm được thâm hụt ngân sách, hạ cơn sốt lạm phát, ổn định giá cả thông qua các biện pháp giảm chi tiêu Chính phủ, xoá bỏ dần các loại trợ cấp qua giá, lương, bù lỗ cho doanh nghiệp Nhà nước.
- Cải cách một cách cơ bản hệ thống thuế theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế, tăng tỷ lệ động viên từ thuế so với GDP, đảm bảo công bằng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Hệ thống thu thuế các cấp đang được kiện toàn.
- Cải cách trong lĩnh vực sản xuất, chi tiêu ngân sách trở thành công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều tiết thu nhập thông qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, các chính sách trợ cấp của Chính phủ.
- Đổi mới các biện pháp trợ cấp cho thâm hụt ngân sách như phát hành trái phiếu kho bạc, giảm và tiến tới chấm dứt phát hành tiền cho thâm hụt ngân sách từ năm 1992.
Tóm lại, thuế và chi tiêu Chính phủ đang dần trở thành những công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước.

Download toàn bộ bái viết tại đây